Lịch sử Lý trưởng

Theo "Từ điển chức quan Việt Nam" của Đỗ Văn Ninh (Nhà xuất bản Thanh niên 2006), lý trưởng: “Thời Bắc Ngụy, Thái Hòa thứ 10 (486) quy định 25 nhà là 1 lý, lập lý trưởng. Từ Bắc Tề về sau gọi là lý chính. Từ Minh khôi phục lý trưởng. Cứ 100 hộ thì lập 1 lý trưởng. 10 giáp thủ, luân phiên ứng dịch, thúc biện tiền lương. Năm Kỉ Hợi (1419) Lý Bân định lập cứ 110 hộ làm 1 lý, mỗi năm 1 người làm lý trưởng, 1 người làm giáp thủ, ứng dịch hết lượt lại bắt đầu lại, thường bị roi vọt khổ sở”.[1]

Cũng theo Đỗ Văn Ninh, “thời Lê, tháng 11 năm Mậu Thân (1428) đặt xã quan, xã lớn 3 người, xã vừa 2 người, xã nhỏ 1 người. Đời Lê Thánh Tông đổi xã quan làm xã trưởng. Thời Vĩnh Thọ (1638) sai các châu huyện chọn đặt xã trưởng, xã sử, xã tư, lấy nho sinh, sinh đồ làm, giữ việc chỉnh lý việc làng, khám hỏi kiện cáo. Từ đời Long Đức (1732) về sau, do dân bầu chức xã quan không được coi trọng nữa”. Đến thời Minh Mệnh, nhà Nguyễn đặt lại lý trưởng, giữ việc hành chính cấp xã, được cấp triện.

Nhà nho Phạm Xuân Lộc, người làng xã Dịch Vọng Tiền (Hà Đông xưa, nay thuộc Cầu Giấy, Hà Nội) viết trong cuốn "Nhân danh tập chí" (Tài liệu về tổ chức và tục lệ của làng quê Bắc Kỳ) năm 1923 xếp lý trưởng đứng ở trung hạng trong 3 hạng được phân cấp trong xã hội cũ, đó là thượng hạng, trung hạng và hạ hạng. “Trung hạng gồm những học trò đi thi trúng nhất trường hoặc nhị trường, lý trưởng, phó lý, chánh tổng, hương trưởng, thày đội, thầy đề, thày thông...[2]